Thứ Năm, 25 tháng 7, 2024

Sao Khuê đất Việt

                                      -Lính Trẻ-

(Kính viếng và thành kính tiễn biệt Người Lãnh tụ vĩ đại, Người Cộng sản kiên trung, tài năng, mẫu mực - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương)

Hôm qua trời nổi cơn dông

Chỉ lo chuẩn bị Lễ tang cho Người

                                      Khó bề chu tất mà thôi

Nhưng nay Trời lại thương Người - Không mưa.

 

Chỉ người Dân khóc như mưa

Tiễn Người Cộng sản - về nơi vĩnh hằng

Cả đời việc nước lo toan

Tròn Xuân tám chục (80 tuổi) chưa ngơi phút nào.

 

Chênh vênh bàn ghế, rèm thưa

Cửa phòng hờ khép, lao xao gió lùa

Bác ngồi làm việc quên trưa

Điện đèn không tắt, đêm khuya bóng Người!

 

Hôm nay Bác đã đi rồi

Tiếng thơm ở lại, muôn đời lưu danh

Cuộc đời thanh bạch, giản đơn

Như Sao Khuê sáng giữa trời Việt Nam./.

                                     _Đông Anh, Hà Nội, 26/7/2024_

Thứ Ba, 2 tháng 1, 2024

VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN DỊCH “HÀ NỘI - ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG” TRONG TÌNH HÌNH MỚI


_Trung tá, TS Phan Văn Lương, Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị_




Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972 là thắng lợi quan trọng mang tính “bước ngoặt” của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. 51 năm đã trôi qua, đã có nhiều ý kiến phân tích, bình luận về Chiến dịch này của các học giả trong nước và ngoài nước, trong đó có cả các nhà nghiên cứu của Mỹ ở các tầm mức khác nhau. Riêng đối với dân tộc ta, Quân đội ta, chiến thắng này đã góp phần tô thắm trang sử vàng chói lọi chống giặc ngoại xâm của dân tộc trong thế kỷ XX; đồng thời, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trong đó có bài học kinh nghiệm về công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT).
1. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương và cấp ủy các cấp trong chuẩn bị và tiến hành chiến dịch
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội không chỉ là nguyên tắc cơ bản, quan trọng hàng đầu bảo đảm cho quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, là cơ sở để xây dựng quân đội vững mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; mà đây còn là bài học kinh nghiệm thành công quý báu trong lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta.
Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chúng ta đã quán triệt và thực hiện nghiêm túc, triệt để nguyên tắc này, do đó, đã giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, chủ động nắm và dự báo tình hình, chuẩn bị về mọi mặt, nhất là tư tưởng, tinh thần, phương án tác chiến; chuẩn bị về lực lượng, thế trận, cơ sở vật chất, vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật để đánh địch.
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị về con người và vũ khí, phương tiện sẵn sàng đánh địch tập kích đường không. Riêng đối với Quân chủng Phòng không - Không quân, từ giữa những năm 60 thế kỷ XX đã chủ động đề nghị các nước anh em giúp đỡ về vũ khí, khí tài hiện đại như các loại pháo phòng không 37, 57mm, các loại ra-đa, tên lửa, máy bay chiến đấu; đồng thời, cử nhiều đoàn cán bộ sang học tập về chỉ huy tham mưu, về khoa học kỹ thuật và nghệ thuật quân sự.
Trước âm mưu mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, tháng 3 năm 1964, Trung ương Đảng đã chỉ đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chuyển một bộ phận lực lượng vũ trang, trong đó có Phòng không - Không quân, Hải quân từ thời bình sang thời chiến, thực hiện “vừa sản xuất, vừa chiến đấu, quyết tâm đánh bại chiến tranh phá hoại phong tỏa của địch, ra sức chi viện cho cách mạng miền Nam” . Tháng 4 năm 1964, Quân ủy Trung ương chỉ đạo Quân chủng Phòng không - Không quân điều Trung đoàn 234 và Tiểu đoàn Pháo Cao xạ 24, Quân khu 4 sang chiến trường Lào phối hợp với bạn bảo vệ trục đường số 7. Qua chiến đấu của các đơn vị, Quân chủng đã rút ra nhiều kinh nghiệm về tổ chức chỉ huy hiệp đồng, cơ động lực lượng, bố trí đội hình tác chiến, cách đánh, đảm bảo các mặt và duy trì lực lượng chiến đấu liên tục để phổ biến trong toàn quân.
Cuối tháng 3 năm 1965, Hội nghị lần thứ 11 (khóa III), Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cách mạng cho cả nước, trong đó nhiệm vụ của quân và dân miền Bắc là: “Chuẩn bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc “Chiến tranh cục bộ” nếu địch gây ra, tiếp tục xây dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với tăng cường quốc phòng; phát động cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch” . Đến tháng 6 năm 1972, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng hạ quyết tâm “chủ động và phát huy sức mạnh tổng hợp của Quân chủng Phòng không - Không quân, đánh bại bước leo thang cao nhất của Mỹ. Chuẩn bị sẵn sàng, đầy đủ để đánh thắng, kiên quyết bắn rơi máy bay B-52 tại chỗ, tập trung lực lượng từ vĩ tuyến 20 trở ra, lấy Hà Nội là mục tiêu bảo vệ chủ yếu, nơi tập trung lực lượng chủ yếu” . Trong điều kiện một cuộc chiến tranh chống phong tỏa và phá hoại miền Bắc của không quân Mỹ đã đến rất gần, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Quân ủy Trung ương, các lực lượng bắn máy bay, tàu chiến của dân quân tự vệ tăng nhanh, hàng chục đại đội dân quân miền Bắc đã được trang bị các loại pháo cao xạ 37, 57, 100mm; 170 đại đội, trung đội được trang bị súng máy cao xạ; 20 đại đội, trung đội được trang bị pháo 85mm bắn tàu chiến .
Có thể khẳng định rằng, nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo khoa học, chính xác, chủ động, “từ sớm, từ xa” về mọi mặt, nhất là công tác chỉ đạo nghiên cứu, nắm và dự báo chiến lược, chuẩn bị về tâm lý, tinh thần, con người, vũ khí, trang bị khí tài, cách đánh… quân và dân ta bằng nhiều phương pháp khác nhau, kết hợp tinh thần dũng cảm và trình độ khoa học kỹ thuật, trí thông minh sáng tạo đã vượt qua mọi khó khăn, thử thách, làm thất bại từng bước thủ đoạn của địch, nhất là cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội tháng 12 năm 1972.
Giữ gìn và phát huy những kinh nghiệm CTĐ, CTCT trong chiến dịch “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972. Trong thời gian tới, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”. Trong đó, tập trung xây dựng hệ thống tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội vững mạnh toàn diện, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; duy trì nghiêm túc, có hiệu quả các nền nếp, chế độ sinh hoạt, học tập của Đảng. Đổi mới, nâng cao chất lượng chuẩn bị và ra nghị quyết lãnh đạo; phân công trách nhiệm cụ thể và tổ chức thực hiện nghị quyết chặt chẽ, hiệu quả. Gắn kết quả lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ của tổ chức đảng, của cơ quan, đơn vị với kết quả hoàn thành nhiệm vụ của cấp ủy, cán bộ chủ trì, nhất là người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, bí thư và phó bí thư cấp ủy.
2. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, nhất là về tâm lý, tinh thần cho quân và dân ta phục vụ chiến dịch
Trong cuộc đụng đầu có một không hai trong lịch sử các cuộc chiến tranh và xung đột vũ trang trên thế giới, quân và dân ta đã phải đương đầu với không quân Mỹ được mệnh danh là “bất khả chiến bại”. Tại thời điểm đó, không quân Mỹ ở thế chủ động tiến công với dã tâm từ rất lâu trước đó, với phương tiện, vũ khí hiện đại, đồng bộ, kinh nghiệm tác chiến không quân dày dạn. Trong khi đó, quân và dân ta ở thế phòng thủ, tương đối bị động; vũ khí, trang bị, phương tiện cơ bản là thô sơ, tương đối hiện đại, không đồng bộ, kinh nghiệm tác chiến “đất đối không” và “không đối không” còn ít.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ cuối năm 1967: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội” .
Sau cuộc tiến công chiến lược năm 1972 giành nhiều thắng lợi, quân và dân ta lại đánh thắng một bước quan trọng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của không quân, hải quân Mỹ ở miền Bắc và không ngừng tăng cường sức người, sức của cho miền Nam. Tuy nhiên, sau khi tái đắc cử Tổng thống Mỹ, Ních-xơn trở mặt, xúc tiến kế hoạch leo thang chiến tranh, tăng cường viện trợ cho Sài Gòn, đốc thúc quân ngụy phản kích lấn chiếm vùng giải phóng, tăng gấp đôi số phi vụ B-52 đánh phá tuyến giao thông vận chuyển ở các tỉnh thuộc Quân khu 4, tăng cường trinh sát miền Bắc bằng máy bay SR71 và nhiều loại khác.
Quán triệt tư tưởng cách mạng chiến lược tiến công của Đảng và thực hiện lời dạy của Bác Hồ, ngay từ rất sớm, quân và dân ta đã nghiên cứu, thực hiện kết hợp nhiều biện pháp nghiệp vụ điều tra, thu thập thông tin về thủ đoạn sử dụng lực lượng của địch; đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, xây dựng ý chí quyết tâm “dám đánh và quyết đánh” cho nhân dân và bộ đội. Đẩy mạnh các phong trào thi đua như: Phong trào “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” năm 1966; phong trào thi đua “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” năm 1970; phong trào giành danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ, diệt ngụy” trong các lực lượng vũ trang kết hợp với phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ; “Ba sẵn sàng” của thanh niên; “Ba đỉnh cao” của công đoàn… Tuyên truyền học tập gương anh hùng trong lực lượng vũ trang, tổ chức đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua,… để động viên quân đội và toàn dân; đồng thời, hướng lái, động viên, chỉ đạo, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ bộ đội ở các chiến trường, các mặt trận và nhân dân ở miền Bắc.
Trên mặt trận ngoại giao, các phái đoàn, nhân viên ngoại giao, kiều bào ta ở khắp nơi tham gia các hoạt động ủng hộ Việt Nam, lên án chiến tranh xâm lược và sử dụng B-52 phá hoại miền Bắc nước ta của đế quốc Mỹ để vạch trần tính chất phi nghĩa, dã tâm, thủ đoạn thâm độc của địch…
Các hoạt động trên được lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức chặt chẽ ở tất cả các bộ, ngành, các nhà máy, xí nghiệp, các địa phương giúp chúng ta có tâm thế chủ động, có niềm tin chiến thắng; phát huy sức mạnh và trí tuệ của người dân Việt Nam trong gian khó, hiểm nguy để tìm tòi, thể nghiệm, xác định cách đánh và xây dựng phương án tác chiến phù hợp, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, nhanh chóng chuyển từ thế “bị động cục bộ” sang thế “chủ động chuẩn bị, chờ địch vào để tiêu diệt” .
Hiện nay, yêu cầu nhiệm vụ của công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong quân đội có những yêu cầu cao hơn. Tuy vậy, tiến hành chặt chẽ, có hiệu quả công tác này sẽ là cơ sở để nâng cao nhận thức, làm chuyển biến ý thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ. Nội dung giáo dục cho các đối tượng và trong từng thời điểm phải phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm. Coi trọng giáo dục về truyền thống dân tộc, của Đảng, của quê hương, của Quân đội và đơn vị; các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch có liên quan tới nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, CTĐ, CTCT… Kết hợp giáo dục thường xuyên với đột xuất; giáo dục chính khóa với bổ trợ, ngoại khóa; giáo dục thông qua các hoạt động thực tiễn. Đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng, phương tiện thông tin, tuyên truyền, cổ động, mạng xã hội, các thiết chế văn hóa ở cơ sở.
3. Phát huy vai trò nòng cốt của các lực lượng thường trực phòng không -không quân Việt Nam, nhất là vai trò của đội ngũ cán bộ các cấp trong chiến đấu
Để chuẩn bị cho cuộc đối đầu với không quân Mỹ trên bầu trời Hà Nội, Quân ủy Trung ương, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã chủ động, coi trọng xây dựng lực lượng phòng không “ba thứ quân”, lấy bộ đội chủ lực phòng không - không quân làm nòng cốt, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân rộng khắp, xây dựng thế trận phòng không nhân dân nhiều tầng, nhiều lớp, nhiều lực lượng, nhiều phương tiện, bảo đảm vững chắc, luôn luôn sẵn sàng đánh bại các cuộc tập kích đường không của kẻ thù.
Trên cơ sở đánh giá thực tế chiến trường, tháng 6 năm 1972, các tài liệu về B-52 được bổ sung và phân tích khoa học, làm cơ sở để hoàn thiện về cách phát hiện và đánh B-52 cho bộ đội. Ngày 24 tháng 11 năm 1972, đồng chí Tổng Tham mưu trưởng phê chuẩn Kế hoạch Chiến dịch phòng không đánh trả cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng và ra lệnh cho Quân chủng Phòng không - Không quân hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến đấu xong trước ngày 03 tháng 12 năm 1972.
Thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương, đó là: “Nâng cao chất lượng toàn diện, tích cực phát triển số lượng cán bộ. Các nhà trường quân sự đã thu nhận khoảng 8,5% tổng số cán bộ về đào tạo, bồi dưỡng, do vậy, đội ngũ cán bộ tăng nhanh, năm 1970 gấn 3,5 lần năm 1964” . Đặc biệt, Quân chủng Phòng không - Không quân được ưu tiên về số lượng, chỉ tiêu trong việc lựa chọn, bổ sung nhiều cán bộ khoa học kỹ thuật ở các ngành của Nhà nước vào các cơ quan, nhà trường, đơn vị sẵn sàng chiến đấu. Quân chủng đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở các nhà trường, các bộ, ngành, địa phương và cử một số đoàn cán bộ sang các nước xã hội chủ nghĩa anh em học tập, nghiên cứu.
Trong lúc miền Bắc tích cực chuẩn bị về mọi mặt, thì công tác chuẩn bị lực lượng, vũ khí trang bị khí tài của bộ đội phòng không - không quân cũng được tăng cường. Trước ngày diễn ra chiến dịch, tổng số lực lượng phòng không của ta có 06 trung đoàn tên lửa phòng không SAM2, 03 trung đoàn không quân tiêm kích, 04 trung đoàn và 08 tiểu đoàn pháo cao xạ, 365 đơn vị pháo và súng máy phòng không của dân quân tự vệ, toàn bộ mạng ra-đa miền Bắc nước ta. Đến ngày 04 tháng 12, cơ bản mọi công tác chuẩn bị của ta đã hoàn thành, sẵn sàng và chủ động “đón đánh máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội”.
Khi chiến dịch diễn ra, ta đã xây dựng và thực hiện thành công thế trận cài xen kẽ trong chiến đấu phòng không, hình thành 03 cụm phòng không chiến dịch là cụm Hà Nội, cụm Hải Phòng và cụm Bắc đường 1, Thái Nguyên. Trong quá trình chiến đấu đã kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến phòng không với không quân; chủ động chuyển hóa thế trận, điều chỉnh vị trí chiến đấu một số đơn vị tên lửa, trạm ra-đa; thay đổi sân bay cất cánh cho không quân ta đánh địch; tổ chức nghi binh, ngụy trang, lập trận địa giả nên đã gây ra nhiều bất ngờ cho Mỹ.
Hiện nay, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, Đảng ta chủ trương: “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền, biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước” . Để thực hiện được chủ trương và mục tiêu trên, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải đoàn kết, quyết tâm, kiên quyết, kiên trì con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; có đường lối, chủ trương, chính sách, kế sách phù hợp để xây dựng, củng cố tiềm lực quốc phòng, tiềm lực kinh tế, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện làm nòng cốt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”, Quy chế công tác cán bộ trong Quân đội, xây dựng đội ngũ cán bộ đảm bảo chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý, trong đó có đội ngũ cán bộ chính trị các cấp trong toàn quân. Nâng cao trách nhiệm, năng lực, phương pháp tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì. Thực hiện tốt việc bồi dưỡng, tập huấn cán bộ gắn với gửi cán bộ đi đào tạo tại các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội; thực hiện “cấp trên bồi dưỡng cấp dưới, cơ quan bồi dưỡng đơn vị, cán bộ có kinh nghiệm bồi dưỡng cán bộ trẻ, mới ra trường”. Động viên cán bộ tự giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng về mọi mặt, nhất là phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học, đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa về cả học vấn lẫn chức danh quản lý, chỉ huy, chức danh chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ.
Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là một trong những chiến thắng có ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại to lớn. Đó là thắng lợi của ý trí, bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, của lòng dũng cảm, trí thông minh, sáng tạo, tinh thần đoàn kết chống ngoại xâm trên dưới một lòng, quân dân hòa thuận, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng ta. 51 năm đã trôi qua, chúng ta càng có điều kiện hiểu sâu sắc hơn, thấy rõ hơn ý nghĩa và giá trị của chiến thắng này cũng như những bài học kinh nghiệm được rút ra phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới, trong đó có những bài học về công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Tổng cục Chính trị, “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” Chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2012.
(2) Tổng cục Chính trị, Giáo trình Công tác đảng, công tác chính trị, tập 1, Công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ 1954 - 1975, Hà Nội, 2013.
(3) Quân chủng Phòng không - Không quân, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử nghệ thuật chiến dịch phòng không 1972, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1997.
(4) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tổng kết những trận then chốt chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2021.

Thứ Hai, 31 tháng 7, 2023

Ra đi để Trở về

               -Lính Trẻ-
Con trở về thăm lại Bến đò ngang
Ngày thơ bé theo Bà đi chợ Tết
Áo cỏ may, quần đùi Con bẩn hết
Chạy theo sau - nhưng không giúp cho Bà!

       Con lại về Ô tô chạy ngang qua

       Hàng Cau nhỏ năm nào nay đã lớn

       Dòng sông Bo vẫn còn - Đò ngang mất
       Người dân đi, nay đã có Cây cầu.
Con trở về nay Bà chẳng thấy đâu
Căn nhà cũ nay chỉ còn dấu tích
Nhìn xung quanh Mảnh vườn xưa u tịch
Thoáng đâu đây - Con lại nhớ Lưng bà!
       Con vẫn về - hết tuần lại đi xa
       Về thành phố ngàn Hoa thơm, Cỏ ngọt
       Sao vẫn nhớ cái mùi Khoai hảo hạng

       Mẹ vùi sâu trong góc Bếp tro tàn.


Con lại về thăm quê ngoại chiều nay
Trầm ngâm đợi hoa Quỳnh đêm hé nở
Nhớ ngày xưa, sương mờ nơi góc Chợ
Ngoại tôi đang - lúi húi bán rau Mùng.
       Con lại về, Chủ nhật lại đi xa
       Bao ký ức vẫn đong đầy trĩu nặng
       Đi một vòng quanh nhà sao thiếu vắng
       Dáng quen quen, mỗi sáng bán rau Mùng?
-Nhớ Ngoại, Hà Nội đêm trở gió, 5h thứ Ba, ngày 01.8.2023-

Chủ Nhật, 14 tháng 5, 2023

Vốn liếng quý báu của dân tộc

 Bài 1: "Vốn liếng quý báu của dân tộc"

                                                                               TẤN TUÂN - TRẦN CHIẾN - VĂN LƯƠNG

LTS: Trong mọi thời đại, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, tạo nên sức mạnh cho mỗi quốc gia, dân tộc trong chiến lược phát triển. Ở Việt Nam, trong điều kiện mới, làm gì để trí thức khẳng định vai trò, sứ mệnh là “nguyên khí quốc gia”, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng là câu hỏi khó đối với toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Bài 1: "Vốn liếng quý báu của dân tộc!"

Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống quý trọng người hiền tài, trí thức. Trong dân gian truyền nhau về sự chiêm nghiệm có tính chất quy luật: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Trong đó, “phi trí bất hưng” đã được lịch sử kiểm nghiệm và có tính chất định hướng bao trùm trong tiến trình xây dựng, phát triển một Việt Nam giàu mạnh, hùng cường.

“Phi trí bất hưng”

Kẻ sĩ ngày xưa - trí thức ngày nay là hiền tài của quốc gia, dân tộc. Sự tồn vong, hưng thịnh của quốc gia phụ thuộc rất lớn vào vai trò của kẻ sĩ - trí thức. Trải qua các giai đoạn lịch sử, chế độ phong kiến Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân tài. Trên Bia Tiến sĩ ở Quốc Tử Giám (trường đại học đầu tiên của Việt Nam) ghi rõ: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia.

Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần kíp”. Cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) đã viết: “Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt/ Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên...”, đại ý: Tước có 5 bậc, sĩ được dự vào bậc nhất; dân có 4 loại, sĩ đứng đầu... Cũng nhờ đó mà đất Việt qua bao đời: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau/ Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Lịch sử dân tộc cho thấy, các bậc sĩ phu, hiền tài luôn đề cao tinh thần yêu nước, không bao giờ chịu khuất phục, cúi đầu trước sự xâm lăng của ngoại bang. Nhiều tấm gương kẻ sĩ với tinh thần, cốt cách như tùng, như bách, chí khí hiên ngang đã được lịch sử vinh danh muôn đời.

Trong thời đại mới, trí thức có vị trí, vai trò to lớn đối với sự phát triển xã hội. V.I. Lênin viết: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể nào chuyển lên chủ nghĩa xã hội được” và yêu cầu đảng của giai cấp công nhân phải biết “tạo ra tầng lớp trí thức riêng của mình”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc”, là “một phần tương lai của dân tộc”.

Trân trọng nhân tài, thu hút và đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng trí thức là kinh nghiệm quý báu làm nên thành công của cách mạng, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thực hành trong suốt quá trình tìm đường cứu nước, chuẩn bị thành lập Đảng, nhất là những ngày đầu lập nước. Trong điều kiện khó khăn của kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chú ý thu hút những trí thức có tài trong và ngoài nước đi theo cách mạng, giao phó những vị trí quan trọng để họ có điều kiện phát huy tài năng, cống hiến cho cách mạng. Điển hình như cụ Huỳnh Thúc Kháng, một chí sĩ, học giả, từng làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ thời Pháp thuộc, Chủ bút Báo Tiếng Dân, được Hồ Chí Minh hai lần gửi điện mời tham gia Chính phủ. Cụ được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, thành lập tháng 3-1946.

Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn bị sang Pháp đàm phán với Chính phủ Pháp, Người đã tin tưởng giao cho cụ Huỳnh Thúc Kháng trọng trách Quyền Chủ tịch nước.

Nhiều trí thức tự nguyện đi theo cách mạng và trở thành những nhà cách mạng lỗi lạc, giữ cương vị cao trong bộ máy của Đảng, Chính phủ, như các đồng chí: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Lê Văn Hiến, Tố Hữu... Nhiều trí thức, học sinh đã được cử đi học ở một số nước trên thế giới để về kiến thiết đất nước. Đồng thời, nhiều trí thức Việt Nam có tài ở nước ngoài, như: Trần Đại Nghĩa, Đặng Văn Ngữ, Lương Định Của, Phạm Huy Thông, Võ Quý Huân, Trần Hữu Tước... được mời về nước làm việc và có những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đội ngũ trí thức không chỉ cống hiến sức lực, trí lực, mà còn cả sinh mệnh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Từ tầng lớp trí thức có số lượng nhỏ bé và phân tán, bị o ép về văn hóa bởi chủ nghĩa thực dân, đến năm 1954, miền Bắc đã có hơn 500 người có trình độ đại học và 3.000 người có trình độ trung học chuyên nghiệp. Đến năm 1964, số người có trình độ đại học và trung học chuyên nghiệp tăng lên 30.709 người (gấp 10 lần so với năm 1954). Đến năm 1975, miền Bắc có 41 trường, phân hiệu đại học (gấp 10,3 lần so với năm 1955). Sau ngày đất nước thống nhất, các tỉnh miền Nam có hơn 100.000 người có trình độ trung học trở lên, trong đó hơn 30.000 người trình độ từ trung cấp chuyên nghiệp trở lên, 16.000 người trình độ đại học và trên đại học. Có nguồn nhân lực chất lượng qua các giai đoạn lịch sử là nguyên nhân quan trọng giúp Đảng ta lãnh đạo toàn dân tộc giành thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo công tác vận động đội ngũ trí thức. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” khẳng định: “Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển”. Liên tục trong nhiều nhiệm kỳ đại hội Đảng gần đây, Ban Chấp hành Trung ương đều khẳng định tầm quan trọng của đội ngũ trí thức và xác định rõ trách nhiệm, lộ trình, bước đi trong việc xây dựng đội ngũ trí thức có đủ “tâm” và “tầm”, tham gia có hiệu quả vào công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của Đảng năm 2021 khi xác định các “đột phá chiến lược” phát triển đất nước giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo (tầm nhìn đến năm 2030 và năm 2045), đã nhấn mạnh nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao và yêu cầu cần có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài nước.

Những bước trưởng thành vượt bậc

Hơn 40 năm gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu khoa học, PGS, TS Lê Tất Khương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển vùng, Bộ Khoa học và Công nghệ không nhớ nổi mình đã đi đến bao nhiêu vùng đất, gặp gỡ bao nhiêu người nông dân. Triển khai mỗi đề tài, ông đều thu gặt nhiều thành quả trong việc ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, giúp người dân thoát nghèo, làm giàu chính đáng. Với những đóng góp to lớn, ông được vinh danh là một trong 112 trí thức tiêu biểu toàn quốc năm 2019.

Thời gian qua, hàng triệu trí thức Việt Nam đã tích cực tham gia nghiên cứu, ứng dụng, sáng tạo khoa học kỹ thuật và trở thành lực lượng quan trọng thúc đẩy hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược, kế hoạch phát triển đất nước nhanh và bền vững.

Tại phiên họp cho ý kiến về Đề án tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 27 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước diễn ra mới đây, tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư khẳng định: Đội ngũ trí thức Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, ngày càng nâng cao về chất lượng, chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu, ứng dụng, sáng tạo khoa học; là lực lượng đi đầu trong cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư và hội nhập quốc tế; có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thúc đẩy phát triển đất nước nhanh và bền vững theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công nhân - nông dân - trí thức.

Đội ngũ trí thức Việt Nam đã có vai trò quan trọng và tích cực cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ khu vực và thế giới; góp phần đưa Việt Nam từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250 USD trong những năm đầu đổi mới, đến năm 2022, quy mô GDP ước đạt 409 tỷ USD và GDP bình quân đầu người năm 2022 khoảng 4.100 USD/người; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về kết quả tăng trưởng kinh tế và chất lượng cuộc sống của người dân.

Trong đội ngũ trí thức, một bộ phận tham gia công tác lãnh đạo, quản lý đã phát huy tốt vai trò, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, trình độ quản lý của Nhà nước. Nhiều trí thức năng động, sáng tạo, với tài năng và bản lĩnh đã hòa nhập nhanh chóng trong môi trường làm việc quốc tế, góp phần thúc đẩy mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới ngày càng phát triển. Đội ngũ trí thức có không ít đóng góp, tiên phong trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, đối ngoại,... Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trí thức là lực lượng nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Minh chứng cho sự phát triển của đội ngũ trí thức là sau gần 40 năm đổi mới đất nước, từ 15 tổ chức hội ban đầu, đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho trí thức khoa học và kỹ thuật Việt Nam) đã có tới 156 hội thành viên (gồm 63 liên hiệp hội ở các địa phương và 93 hội ngành toàn quốc), gần 600 tổ chức khoa học, công nghệ, hình thành một mạng lưới các tổ chức thành viên và trực thuộc rộng khắp cả nước, đa ngành, đa lĩnh vực; tập hợp, thu hút khoảng 3,7 triệu hội viên, trong đó có khoảng 2,2 triệu hội viên trí thức, chiếm gần 1/3 số trí thức trong cả nước. Theo kết quả khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tỷ lệ cán bộ, giảng viên có học hàm giáo sư, phó giáo sư tăng từ 4,42% (năm 2008) lên 7,92% (năm 2022). Số cán bộ, giảng viên có trình độ tiến sĩ tăng từ 10,07% (năm 2008) lên 26,05% (năm 2022); trình độ thạc sĩ tăng từ 45,4% (năm 2008) lên 61,4% (năm 2022). Thông qua các đề án và chương trình học bổng do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, hơn 5.200 du học sinh công tác tại các cơ sở giáo dục đại học được cử đi đào tạo trình độ thạc sĩ và tiến sĩ ở những quốc gia có chất lượng giáo dục hàng đầu thế giới như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Úc, Hungary, Liên bang Nga, Trung Quốc...

Đặc biệt, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong kỷ nguyên chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo, đội ngũ trí thức ở một số lĩnh vực, hoạt động đặc thù được hình thành và có những bước tiến bộ khá toàn diện. Sự chủ động trong chiến lược con người, trực tiếp là đội ngũ trí thức đã tạo nguồn nhân lực đủ mạnh, giúp thực hiện các “đột phá” phát triển đất nước.

BOX: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài”.

(Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06-8-2008 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X)./.

 

Thứ Bảy, 13 tháng 5, 2023

Mẹ là tất cả

                                                     










                                                     _Lính Trẻ_

                 Ai còn Mẹ xin đừng làm Mẹ khóc

Để Mẹ cười dẫu đôi má da nhăn

Đường bạn đi dù gian khó, nhọc nhằn

Hãy bình tâm cố gắng về thăm Mẹ.

 

Ngôi nhà xưa dù nhỏ, to, siêu vẹo

Vẫn là nơi chờ đợi các Con về

Nếu cứ Đợi khi nào ta thành đạt

Sẽ muộn màng, vắng Mẹ lúc vinh quang./.

_SQCT, Thạch Hoà, Thạch Thất, Hà Nội, 3h30 Chủ nhật, 14/5/2023 - Ngày của Mẹ_

 

Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2023

Nhớ tháng Tư

 

       

                                  _Lính Trẻ_

Hạ đã trở về trời đất nắng chang chang

Thấp thoáng Nghĩa trang - in hình dáng Mẹ

Đất nước hoà bình, vươn lên mạnh mẽ

Vẫn thấy nhiều nơi nước mắt Mẹ lăn dài.

Mẹ lại tìm về gọi mãi tên Anh

Trong chiều Hạ nắng chói chang vàng lá

Con đã đi rồi Mẹ bao năm lặng lẽ

Mỗi độ tháng Tư về (30 - 4), Mẹ lại đến thăm Con.

Mẹ kể rằng: “Mấy đứa bạn thân Anh

Thủa ngày xưa chốn nhà chơi đánh đáo

Nhiều Tết qua rồi điểm danh - thừa Áo

Bởi "Chủ Tướng" đi rồi, mãi mãi xa quê”.

Mẹ thắp tâm nhang nhìn trong quạnh quẽ

Tu sửa lại "Ngôi nhà" - Con mẹ nghỉ ngàn Thu

Mẹ đã già rồi, mắt kém, da nhăn

Vẫn gọi rõ tên Anh, nhớ ngày sinh, tháng đẻ.

Chẳng ước mong gì, “chỉ mong Con mạnh mẽ”

Xưa ở Dương trần, nay Địa phủ xa xôi

Mẹ chẳng khóc gào, chỉ thấy vui thôi

Bởi Con mẹ mãi trẻ cùng năm tháng.

Di ảnh nhạt màu, hình Anh tươi sáng

Mái tóc gọn gàng dù mấy chục Xuân qua

Mẹ đã già rồi, chắc cũng sắp đi xa

Vẫn vui vẻ đến gần Con yêu quý.

Đất nước đẹp giàu, quê mình nay đổi mới

Nhà cửa khang trang, cây trái có bốn mùa

Đường làng “Con ơi, luôn có trẻ vui đùa

Mỗi tháng Tư về ai ai cũng nhớ” (!)

_ Hòa Lạc, Thạch Thất, Hà Nội, 3h38, thứ Bảy ngày 29/4/2023.