-PVL-
Với mục đích làm hỗn loạn về
tư tưởng, phân tán về tổ chức, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, bảo vệ trật
tự của chủ nghĩa tư bản và vu khống chủ nghĩa xã hội; các thế lực thù địch dùng
trăm phương, nghìn kế để chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một trong những
thủ đoạn thâm độc ấy là chúng “nặn ra” hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh về các
hình mẫu tư tưởng và các khẩu hiệu hành động của nó, mà cốt lõi là việc lấy lý
thuyết của chủ nghĩa “đa nguyên chính trị” làm nền tảng, từ đó đặt ra cái gọi
là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” để chống phá các nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Thực hiện mục tiêu
này, một mặt, các thế lực thù địch tăng
cường tuyên truyền cổ xúy cho chế độ “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”,
“nền dân chủ tư sản” theo mô hình các nước tư bản chủ nghĩa; mặt khác, chúng ra sức phê phán, xuyên
tạc, lên án, đả phá chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cộng sản duy nhất
cầm quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Vậy thực chất “đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập” là gì? Nó có phải là dấu hiệu và cội nguồn bảo đảm cho nền dân
chủ thực sự trong xã hội hay không? Ở Việt Nam có nhất thiết phải thực hiện đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập hay không?
Đa
nguyên chính trị là thuật ngữ xuất hiện từ rất lâu
trong khoa học chính trị và đời sống chính trị thế giới, nó bắt nguồn từ “chủ
nghĩa đa nguyên” ở các nước phương Tây. Nói đến đa nguyên chính trị có nhiều chiều
cạnh khác nhau, song bản chất là phản ánh đặc trưng hệ thống chính trị của một
quốc gia có nhiều cực, nhiều mục tiêu, nhiều con đường, nhiều đảng phái đại
biểu cho những lợi ích khác nhau được tự do hoạt động. Đa nguyên chính trị
thường gắn liền với thể chế chính trị đa đảng. Với lý thuyết của chủ nghĩa đa
nguyên chính trị, các thế lực phản động ca ngợi nền dân chủ tư sản và đòi “cải
tiến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” nhằm tạo ra cái gọi là “sự tự quản” của người
lao động (người sản xuất) và “quyền tự quyết” của nhân dân dưới chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, cần thấy rằng, thể chế đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập không phải là dấu hiệu của dân chủ, cũng
không phải là cội nguồn bảo đảm cho dân chủ thực sự. Ngược lại, chế độ nhất
nguyên chính trị, một đảng duy nhất cầm quyền cũng không phải là nguyên nhân
của mất dân chủ. Cái gốc để bảo đảm cho nền dân chủ, chế độ dân chủ thực sự
trong xã hội là tư liệu sản xuất nằm trong tay ai, phục vụ cho ai?
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, tư liệu
sản xuất nằm trong tay thiểu số nhà tư bản của giai cấp tư sản, vì lẽ ấy nền
dân chủ trong xã hội tư bản mang bản chất của giai cấp tư sản. Trong khi ấy, đa
số quần chúng nhân dân chỉ là những người làm thuê, bán sức lao động để kiếm
sống. Mặc dù hiện nay vị trí của giai cấp công nhân trong các nước tư bản đã có
thay đổi, đời sống vật chất, tinh thần của họ được cải thiện. Một bộ phận công
nhân có cổ phần trong các nhà máy, công ty, tập đoàn tư bản, và do đó, trên
thực tế họ không hoàn toàn là “vô sản” (không có tài sản) như thời kỳ trước
đây. Vị trí của giai cấp công nhân đã có thay đổi nhất định song địa vị chính
trị của họ trong xã hội tư bản vẫn không hề thay đổi. Giai cấp công nhân hiện
đại vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư, không có quyền sở hữu các tư liệu sản xuất
chủ yếu, nên xét về kinh tế họ vẫn là
những người bị bóc lột, xét về chính trị
họ vẫn là giai cấp bị thống trị. Ngược lại, giai cấp tư sản, chế độ tư bản dù
vẫn còn tiềm năng phát triển do có lịch sử tồn tại lâu đời, có kinh nghiệm
chính trị, có tiềm lực về tài chính, quân sự, khoa học kỹ thuật, có sự điều
chỉnh, thích nghi nhất định, song bản chất vẫn là những kẻ bóc lột, xét về
chính trị chúng vẫn là giai cấp thống trị. Lẽ dĩ nhiên về cơ sở xã hội, nền dân
chủ tư sản được xây dựng trên nền tảng quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất và
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong xã hội tư bản cũng chỉ là nền dân
chủ phục vụ thiểu số người trong xã hội, phục vụ giai cấp tư sản không hơn
không kém. V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong chế độ dân chủ tư sản, bọn tư bản
dùng trăm phương nghìn kế, - chế độ dân chủ “thuần túy” càng phát triển, thì
những mưu kế đó càng tinh xảo và có hiệu quả, - để gạt quần
chúng ra, không cho họ tham gia quản lý nhà nước” (4), “Chế độ dân chủ tư sản, tuy
là một tiến bộ lịch sử vĩ đại so với thời trung cổ, song trước sau nó vẫn là -
và dưới chế độ tư bản nó không thể không là - một chế độ dân chủ trật hẹp, bị cắt
xén, giả hiệu, giả dối, một thiên đường cho bọn giàu có, một cái cạm bẫy và một
cái mồi giả dối đối với những người bị bóc lột, đối với những người nghèo” (5).
Trong khi đó, chế độ đa đảng trong hệ
thống chính trị tư sản được các thế lực thù địch, các học giả tư sản tung hô
cũng chỉ là những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, mỵ dân. Thực chất đó là sự
thỏa thuận có nguyên tắc để phân chia quyền lực giữa các phe cánh của một đảng
lớn duy nhất trong xã hội - đảng của những nhà tư bản độc quyền. Thực tế, chế
độ đa đảng ở phương Tây cũng chỉ dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị. Nghĩa là, chính trị là chính trị của một
giai cấp, một đảng hay nhiều đảng thì vẫn là phục vụ một giai cấp nhất định. Do
vậy, chế độ đa đảng ở nhiều nước phương Tây về bản chất vẫn chỉ nhằm phục vụ
chế độ tư bản, giai cấp tư sản, cụ thể hơn là chính đảng cầm quyền. Các đảng
phái cánh tả, cánh hữu, đảng phái được coi là đối lập với đảng cầm quyền xét
đến cùng vẫn phục vụ lợi ích giai cấp tư sản, hoạt động trong khuôn khổ, trật
tự cho phép của chính đảng tư sản cầm quyền. Và đương nhiên đa đảng nhưng không
phải là đa đảng đối lập.
Mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là thông qua các hoạt động “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, “xâm lăng về văn hóa”,… nhằm phá hoại
tư tưởng, thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào Đảng, vào
tính tất yếu lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam; đòi xóa bỏ Điều 4,
Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng Nhà nước theo mô
hình “tam quyền phân lập”,... từng bước hình thành tư tưởng, quan điểm đối lập,
phần tử chống đối, thành lập nên các tổ chức, lực lượng chính trị đối lập tại Việt
Nam, tiến tới thiết lập các đảng phái chính trị đối lập để hiện thực hóa mục
tiêu “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam. Do vậy, đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch, trong đó có tính chất phản cách mạng của chủ
nghĩa đa nguyên chính trị là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết, là trách
nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân và
toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
1. Ở Việt Nam hiện nay không cần thực hiện “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Mục tiêu cao nhất
của con người nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng là “Độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc”. Mục tiêu ấy ở nước ta đã từng
trao cho tất cả các giai tầng trong xã hội, các đảng phái, các cá nhân,… trong
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong thời kỳ này, các phong trào yêu
nước, các cuộc cách mạng theo các quan điểm, lập trường phi vô sản được tiến
hành ở Việt Nam dưới nhiều hình thức song đều thất bại. Cùng với quá trình phát
triển của lịch sử dân tộc, trong thế kỷ XX ở nước ta đã từng xuất hiện và tồn
tại nhiều đảng phái khác nhau như: Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam
cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách), Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội Việt
Nam,… Tuy nhiên, lịch sử vốn rất công bằng, nhân dân luôn chính xác khi xem
xét, đánh giá và lựa chọn cho mình duy nhất một con đường đúng đắn, một sự
nghiệp vẻ vang, một chính đảng cách mạng chân chính - Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam
là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vừa tuân theo
quy luật chung, vừa tuân theo quy luật đặc thù, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù
hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân. Từ khi thành lập đến nay:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của dân tộc” (3). Do vậy, ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam là đảng cầm quyền, đảng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn bộ xã
hội, đảng là bộ phận của hệ thống chính trị và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp,
pháp luật, đay là một tất yếu khách quan. Nhân dân Việt Nam không muốn và không
cần có một đảng phái chính trị nào khác trên đất nước Việt Nam, vì vậy, cũng
không cần thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” trên đất nước này.
2. Ở Việt Nam không có cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”.
Dân chủ, phát triển, ổn định và
tiến bộ là những mục tiêu thuộc về lý tưởng của loài người, có giá trị phổ quát
chung của toàn nhân loại. Tuy nhiên, những mục tiêu này có được không đồng
nghĩa với vấn đề phải nhất quyết thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Trên thực tế ở nhiều quốc gia, dân tộc đã và đang thực hiện cái gọi là “đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập” cũng không phải đã có dân chủ triệt để, đất
nước và con người phát triển, chính trị ổn định và tiến bộ, công bằng xã hội
được thực thi theo đúng nghĩa. Bởi vì, dân
chủ và đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập là những khái niệm hoàn toàn khác
nhau. Đây cũng là những vấn đề không
tỷ lệ thuận với nhau, không có mối quan hệ biện chứng với nhau, do vậy, chúng
không phải là tiền đề, cơ sở bảo đảm duy nhất cho nhau cùng tồn tại và phát
triển.
Thế giới quan của “chủ nghĩa đa nguyên chính
trị” là chủ nghĩa duy tâm, phủ nhận tính thống nhất của thế giới. Lý thuyết ấy
cho rằng, thế giới là sự kết hợp các nguyên thể, các yếu tố độc lập và tồn tại
riêng biệt. Họ cường điệu và thổi phồng cái riêng, coi cái riêng là cái duy
nhất, cái phong phú đa dạng và vĩnh hằng, là cái vốn có. Họ cho rằng: “xã hội
tư bản chủ nghĩa được phân chia thành vô số các nhóm, các tầng lớp và tập đoàn;
chúng được phân biệt với nhau bằng tài sản và thu nhập, bằng thế giới quan và
tín ngưỡng, bằng đảng phái, bằng nghề nghiệp và bằng vô số những tiêu chuẩn
khác nữa” (1). Do đó, họ cố tình che đậy tính chất đối kháng về lợi ích giai
cấp trong xã hội, làm lu mờ vấn đề lợi ích chung, mục tiêu chung cao đẹp của
con người trong xã hội, mà chủ yếu bảo vệ và cổ vũ cho tư tưởng cá nhân, cục bộ,
ích kỷ, hẹp hòi, là tiền đề thực hiện nguyên tắc “chia để trị” trong lòng xã
hội xã hội chủ nghĩa. Cao hơn là chúng muốn phủ nhận sự phân chia xã hội thành
giai cấp đối kháng, phủ nhận đấu tranh giai cấp, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Hiện nay, nhiều quốc gia, dân tộc đang thực
hiện theo thể chế được gọi là “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Tuy một
vài nước có thu nhập bình quân đầu người và GDP hàng năm tương đối cao, song
phần lớn tài sản và sự thụ hưởng giá trị vật chất và tinh thần lại không thuộc
về đa số nhân dân lao động (giai cấp công nhân, giai cấp nông dân) mà lại nằm
chủ yếu trong tay của một bộ phận người trong xã hội - Đó là các nhà tài phiệt,
là giai cấp tư sản. Ở các nước tư bản đang tồn tại nhiều đảng phái chính trị
với tên gọi khác nhau, song thực chất các đảng chính trị cầm quyền vẫn chỉ
thuộc đảng của giai cấp tư sản. Các chính đảng này không bảo vệ cho quyền lợi,
không phản ánh nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Khẩu
hiệu “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” mà họ rêu rao cũng chỉ là luận điệu
tuyên truyền có dụng ý chính trị mỵ dân, thực chất ở các nước này cũng không có
“đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, quyền lợi vẫn thuộc về thiểu số người
trong xã hội. Vì lẽ đó, quan điểm của các học giả tư sản hiện đại, tiêu biểu là
nhà chính trị học, tương lai học người Mỹ - Anvin Tôphơ (Anvin Toffler) trong tác phẩm “Làn sóng thứ ba” (The Third Wave) xuất bản năm 1980 vẫn hoàn toàn sai trái: “Trong thế kỷ XXI, nền dân
chủ tư sản vẫn tồn tại và nhà nước tư sản hiện nay vẫn là quyền lực chính trị tốt
nhất cho làn sóng đó phát triển”, “Nền văn minh làn sóng thứ ba bắt đầu hàn gắn
mối bất hòa giữa người sản xuất và người tiêu thụ, làm nổi lên nền kinh tế “sản-tiêu”
của ngày mai. Đây có thể là nền văn minh nhân đạo thật sự đầu tiên của lịch sử”
(2).
Có thể thấy rằng, “chủ nghĩa đa nguyên chính
trị” là sản phẩm của giai cấp tư sản với thế giới quan duy tâm, là “công cụ lý
luận”, “vũ khí tư tưởng” để các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận
vai trò duy nhất lãnh đạo xã hội của các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng
sản Việt Nam. Chúng phủ nhận lợi ích chung, mục tiêu chung cao cả, tốt đẹp,
nhân văn; chúng đang muốn hướng lái con người và xã hội vào chủ nghĩa cá nhân,
cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi, cuối cùng là hướng lái Việt Nam đi theo con đường tư
bản chủ nghĩa. Bản thân lý thuyết này đã không phù hợp với thực tiễn, không phù
hợp với bản chất nhân văn, nhân đạo của con người Việt Nam. Do vậy, không có cơ
sở lý luận và thực tiễn tồn tại “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt
Nam.
3. Yêu cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập” thực chất là âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” chống phá cách
mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nước ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng tiếp tục thu được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử; đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; uy tín và vị thế của nước
ta trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định vững chắc. Chính vì lẽ đó, để chống
phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, thực dụng đã,
đang và vẫn sẽ tìm mọi cách tấn công và chống phá, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng, đòi hỏi phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt
Nam.
Mục tiêu và bản chất của các thế lực thù địch
là nhằm gây chia rẽ nội bộ từ trong Đảng, chia rẽ và phá hoại khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị-xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho việc
ra đời và “công khai hóa”, “hợp pháp hóa” các tư tưởng đối lập, hình thành và
phát triển các lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam,
giành giật quần chúng và từ đó cạnh tranh vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
tiến tới thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đời sống
chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam hơn bao
giờ hết luôn nghiêm khắc và có trách nhiệm với sứ mệnh lãnh đạo của mình, gắn
vận mệnh của mình với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Đảng không bảo thủ, độc
đoán, chuyên quyền, xa rời những nguyên lý và nguyên tắc cơ bản trong tổ chức
và hoạt động của mình. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tập thể lãnh
đạo gắn với cá nhân phụ trách, quan hệ gắn bó máu thịt với quần chúng nhân dân,
dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Như vậy, xét cả trên phương diện lý luận và
thực tiễn đều cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, là hạt nhân
chính trị, lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam, đó là tất
yếu khách quan. Ngược lại, các quan điểm tuyên truyền chống phá, xuyên tạc và yêu
cầu thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở Việt Nam của các thế lực
thù địch đều là sai trái, phản động và không có cơ sở hiện thực. Nhân dân Việt
Nam, dân tộc Việt Nam hiện nay và mãi mãi mai sau không muốn, không cần thực
hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”; đồng thời kiên quyết đấu tranh
phản bác các quan điểm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đòi thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở nước ta./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) A-nô-Vinh-khơ (Đức), Chủ nghĩa đa nguyên một “hình mẫu” phản cách
mạng, NXB Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 11.
(2) Anvin Tôphơ (A.Toffler), Làn sóng thứ ba (The Third Wave), NXB
Thông tin lý luận, Hà Nội, 1992.
(3) Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 tr. 130.
(4) V.I.Lênin, Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tập 37, tr. 311.
(5) V.I.Lênin, Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977,
tập 37, tr. 305.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét