Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2014

Năm Giáp Ngọ - Đồng hành cùng những chú ngựa


PVL

Kể từ sau khi bức tường Bec-lin (Đức) sụp đổ, chiến tranh lạnh được tuyên bố công khai chấm dứt, ngay sau đó là sự kiện chính trị Liên Xô và một số nước ở Đông Âu sụp đổ, chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một hệ thống chính trị tiến bộ - đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa sụp đổ. Các thế lực thù địch, đứng đầu là Mỹ và các nước đồng minh chuyển trọng tâm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại ở châu Á, châu Mỹ La - tinh và các nước dân chủ, tiến bộ không đi theo quỹ đạo của Mỹ, trong đó có Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ kết hợp với thúc đẩy “tự diễn biến” (TDB), “tự chuyển hoá” (TCH) trong lòng các nước đối lập.
Bản chất của hiện tượng TDB, TCH trên thực tế đã manh nha xuất hiện từ rất lâu đời, với các biểu hiện như: tuyên truyền kích động, chia rẽ nội bộ đối phương; mua chuộc những cá nhân và bộ phận giữ vai trò quan trọng, chính yếu trong bộ máy chính quyền của lực lượng đối lập; tuyên truyền, phổ biến lối sống thực dụng, xa hoa, lãng phí, văn hoá phẩm đồi truỵ vào hàng ngũ đối phương…
Ở nước ta, việc nhận diện những biểu hiện của TDB, TCH đã được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới từ khá sớm, nhất là khi Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức trở thành đảng cầm quyền. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần hai) khoá VIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy chưa đề cập tới thuật ngữ TDB, TCH nhưng đã chỉ ra những biểu hiện cụ thể của hiện tượng này ở một số cán bộ, đảng viên. Tiếp sau đó, Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta đã chỉ ra bốn nguy cơ ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và đe doạ sự tồn vong của chế độ chính là sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí… - đây thực chất chính là những biểu hiện của TDB, TCH trong một bộ phận cán bộ của Đảng. Thuật ngữ TDB, TCH lần đầu tiên xuất hiện trong văn kiện Đaị hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, khi Đảng ta chỉ ra: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp”[1].

Thứ Ba, 7 tháng 1, 2014

HOÀNG SA, TRƯỜNG SA - MỘT PHẦN ĐẤT MẸ THIÊNG LIÊNG

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm bộ đội Hải quân.
Quân kỳ Quyết thắng của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, chắc tay súng bảo vệ chủ quyền biển, đảo quê hương.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nhìn từ vũ trụ.
Lung linh, huyền ảo Quần đảo Trường Sa.
Cán bộ, chiến sĩ hải quân - Tuần tra nơi hải đảo.
Bình minh nơi cửa biển.
Phút giải lao hiếm hoi nơi thao trường nắng gió.
Lễ tưởng niệm các liệt sĩ hy sinh trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc.
Luôn bên cạnh các anh - 
Những người con ưu tú của đất mẹ Việt Nam nằm lại nơi hải đảo.
Cả nước hướng về bộ đội Trường Sa.
Cháu bé ước mơ được làm "Cô bộ đội".
Cháu vẽ "chú bộ đội đứng gác nơi đảo xa".
Bộ đội hải quân huấn luyện hiệp đồng đánh chiếm đảo.
Đặc công Hải quân luyện tập sẵn sàng chiến đấu.
Biên đội máy bay Su 30MK bay tuần tra bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trình diễn võ thuật của bộ đội hải quân.
Chiến sĩ hải quân chăm sóc vườn rau xanh trên đảo Trường Sa lớn.
Lưu luyến chia tay người thân trên Quân cảng Cam Ranh.
"Em ơi đợi anh về".
Phan Lương (st).





Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

NHẬN DIỆN “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HOÁ” TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY


-PVL-

Kể từ sau khi bức tường Bec-lin (Đức) sụp đổ, chiến tranh lạnh được tuyên bố công khai chấm dứt, ngay sau đó là sự kiện chính trị Liên Xô và một số nước ở Đông Âu sụp đổ, chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một hệ thống chính trị tiến bộ - đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa sụp đổ. Các thế lực thù địch, đứng đầu là Mỹ và các nước đồng minh chuyển trọng tâm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa còn lại ở châu Á, châu Mỹ La - tinh và các nước dân chủ, tiến bộ không đi theo quỹ đạo của Mỹ, trong đó có Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ kết hợp với thúc đẩy “tự diễn biến” (TDB), “tự chuyển hoá” (TCH) trong lòng các nước đối lập.
Bản chất của hiện tượng TDB, TCH trên thực tế đã manh nha xuất hiện từ rất lâu đời, với các biểu hiện như: tuyên truyền kích động, chia rẽ nội bộ đối phương; mua chuộc những cá nhân và bộ phận giữ vai trò quan trọng, chính yếu trong bộ máy chính quyền của lực lượng đối lập; tuyên truyền, phổ biến lối sống thực dụng, xa hoa, lãng phí, văn hoá phẩm đồi truỵ vào hàng ngũ đối phương…
Ở nước ta, việc nhận diện những biểu hiện của TDB, TCH đã được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới từ khá sớm, nhất là khi Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức trở thành đảng cầm quyền. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần hai) khoá VIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng tuy chưa đề cập tới thuật ngữ TDB, TCH nhưng đã chỉ ra những biểu hiện cụ thể của hiện tượng này ở một số cán bộ, đảng viên. Tiếp sau đó, Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Đảng ta đã chỉ ra bốn nguy cơ ảnh hưởng tới uy tín của Đảng và đe doạ sự tồn vong của chế độ chính là sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí… - đây thực chất chính là những biểu hiện của TDB, TCH trong một bộ phận cán bộ của Đảng. Thuật ngữ TDB, TCH lần đầu tiên xuất hiện trong văn kiện Đaị hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, khi Đảng ta chỉ ra: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp”[1].