Thứ Năm, 23 tháng 5, 2013

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC, KINH NGHIỆM QUÂN SỰ VÀ NĂNG LỰC CHỈ HUY THAM MƯU CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ CẤP PHÂN ĐỘI TRONG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY


“Cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam là cán bộ của Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực quân sự, đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Cán bộ chính trị gồm: cán bộ lãnh đạo và quản lý; cán bộ công tác trong các ngành công tác đảng, công tác chính trị của cơ quan chính trị các cấp; cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về lý luận chính trị, khoa học xã hội nhân văn quân sự; cán bộ hoạt động trên các lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hoá, nghệ thuật…”[1].
Đội ngũ cán bộ chính trị trong quân đội hiện nay về cơ bản đã đáp ứng đủ theo yêu cầu nhiệm vụ và tổ chức biên chế, một số ít đơn vị đã có lượng dự trữ cần thiết. Tuy nhiên, tỷ lệ cán bộ chính trị cấp phân đội là trợ lý các cơ quan quân sự quận (huyện), chính trị viên phó đại đội và tương đương còn thiếu tương đối lớn. Lực lượng này được đào tạo từ rất nhiều nguồn, ở nhiều nhà trường khác nhau trong và ngoài quân đội. Tuyệt đại đa số cán bộ chính trị cấp phân đội có lập trường chính trị tư tưởng kiên định, vững vàng; tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; có tình yêu nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức tốt; trình độ nhận thức và chuyên môn nghiệp vụ nhất là kiến thức chuyên ngành công tác đảng, công tác chính trị cơ bản đáp ứng được theo yêu cầu nhiệm vụ; phương pháp, tác phong công tác cụ thể, tỷ mỷ, khoa học; có uy tín trong chi bộ (đảng bộ) và tập thể đơn vị; nhiều đồng chí có chiều hướng phát triển tốt.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm là cơ bản, so với yêu cầu nhiệm vụ theo chức trách, đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém như: kiến thức, kinh nghiệm và khả năng tiến hành hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chưa hiệu quả, nhất là tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, tiến hành công tác tuyên truyền đặc biệt, công tác chính sách hậu phương quân đội; kiến thức, kinh nghiệm hoạt động quân sự của nhiều cán bộ chính trị cấp phân đội còn khoảng cách khá xa so với người chỉ huy cùng cấp; cá biệt, một số cán bộ chính trị cấp phân đội là chính trị viên, chính trị viên phó đại đội và tương đương khi giải quyết mối quan hệ công tác trong cấp uỷ, với người chỉ huy cùng cấp và với đội ngũ cán bộ quân sự, cán bộ chuyên môn kỹ thuật trong đơn vị còn nhiều lúng túng và hạn chế.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có nhiều yếu tố, cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó có nguyên nhân trực tiếp là kiến thức, kinh nghiệm hoạt động quân sự và năng lực chỉ huy tham mưu của đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội còn hạn chế. Do đó, nhiều cán bộ chính trị cấp phân đội có biểu hiện ngại va chạm, thiếu tự tin khi tham gia các hoạt động của đơn vị; chất lượng tham mưu, đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ với cấp ủy cùng cấp và cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy cấp trên còn hạn chế; khả năng quan sát, chỉ đạo, hướng dẫn và trực tiếp tiến hành công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị hiệu quả chưa cao; kinh nghiệm quản lý, chỉ huy đơn vị còn hạn chế; cá biệt có một số đồng chí uy tín trong chi bộ và trong đơn vị thấp không có khả năng tiếp tục phát triển lên các cương vị cao hơn nên có biểu hiện phấn đấu cầm chừng, “trung bình chủ nghĩa”.
Để khắc phục những hạn chế trên, đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp với sự tham gia của nhiều lực lượng, cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục và có hệ thống. Trước mắt, theo tôi, cần quán triệt và thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, chỉ huy, cơ quan chính trị, chính uỷ, chính trị viên các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng nâng cao ý thức trách nhiệm, kiến thức, kinh nghiệm hoạt động quân sự và năng lực chỉ huy tham mưu cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội.
Đây là một giải pháp có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, “giải pháp của mọi giải pháp”. Bởi vì, chỉ khi nào cấp uỷ, chỉ huy, cơ quan chính trị, chính uỷ, chính trị viên có nhận thức đầy đủ, đúng đắn, có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện vấn đề này một cách quyết liệt thì khi đó việc huấn luyện, bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm hoạt động quân sự, năng lực chỉ huy tham mưu cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội mới đi đúng hướng và đạt hiệu quả thiết thực. Ngược lại, ở đâu, khi nào, lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chính trị, chính uỷ, chính trị viên nhận thức không đầy đủ, không quan tâm tới vấn đề này, thì ở đó năng lực của cán bộ nói chung và năng lực của cán bộ chính trị cấp phân đội nói riêng còn nhiều hạn chế, uy tín của cán bộ chính trị cấp phân đội không cao, kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị thấp.
Muốn thực hiện tốt vấn đề này, đòi hỏi cấp uỷ, chỉ huy, chính uỷ, chính trị viên và cơ quan chính trị ở mỗi đơn vị căn cứ vào đặc điểm nhiệm vụ, chất lượng đội ngũ cán bộ chính trị để trong từng nhiệm kỳ đại hội, từng năm, từng giai đoạn huấn luyện phải chủ động có nghị quyết lãnh đạo với những chủ trương, nội dung, chỉ tiêu, biện pháp cụ thể trong công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ của đơn vị, trong đó có cán bộ chính trị cấp phân đội. Trên cơ sở nghị quyết của tổ chức đảng, kế hoạch, chỉ thị, hướng dẫn của cơ quan chức năng cấp trên; cơ quan chính trị, chính uỷ, chính trị viên chủ động tham mưu cho cấp uỷ cấp mình chỉ đạo tập trung thống nhất giữa bốn cơ quan, tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật phối hợp xây dựng kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng, tập huấn cán bộ hằng năm sát với tình hình nhiệm vụ và đặc điểm đội ngũ cán bộ trong đơn vị.
Hai là, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp huấn luyện, tập huấn, bồi dưỡng quân sự tại chức cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội.
Quá trình sử dụng cán bộ là quá trình phải quan tâm huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ về mọi mặt, hay nói cách khác, sử dụng cán bộ phải đi đôi với việc “đào tạo và đào tạo lại” cán bộ, hoặc bồi dưỡng, tập huấn cán bộ một cách thường xuyên, có hiệu quả. Đối với đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội nói chung, nội dung bồi dưỡng nên tập trung vào đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân; kiến thức về chiến thuật binh chủng hợp thành, chiến thuật quân, binh chủng; kỹ thuật chiến đấu của cá nhân và phân đội; trình độ khai thác, sử dụng các loại vũ khí, trang bị kỹ thuật. Riêng đối với cán bộ chính trị cấp phân đội đảm nhiệm cương vị là chính trị viên, chính trị viên phó đại đội, tiểu đoàn và tương đương phải được quan tâm huấn luyện, bồi dưỡng toàn diện, song ưu tiên tập trung vào bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hoạt động quân sự, kinh nghiệm trong quản lý, chỉ huy bộ đội.
Để thực hiện tốt vấn đề này, các cơ quan, đơn vị cần thực hiện nghiêm các quy định của cấp trên về huấn luyện quân sự tại chức và học tập chính trị hằng năm để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ chính trị cấp phân đội. Chủ động làm tốt công tác chuẩn bị huấn luyện về mọi mặt, trước hết là chuẩn bị tốt về lực lượng cán bộ (giáo viên), lựa chọn đối tượng huấn luyện, bồi dưỡng và bảo đảm cơ sở vật chất, địa điểm, sắp xếp thời gian huấn luyện, tập huấn, bồi dưỡng phù hợp để huy động ở mức cao nhất số cán bộ chính trị cấp phân đội ở từng đơn vị được tham gia tập huấn, bồi dưỡng. Chủ động thực hiện tốt việc lồng ghép, kết hợp giữa công tác giáo dục chính trị với các hoạt động của công tác tham mưu, hậu cần, kỹ thuật thường xuyên tại đơn vị để trang bị kiến thức toàn diện, chú trọng nâng cao năng lực chỉ huy tham mưu cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội. Triệt để vận dụng phương châm yếu nội dung nào bồi dưỡng nội dung đó, cấp trên bồi dưỡng cho cấp dưới, cán bộ cơ quan bồi dưỡng cho cán bộ đơn vị, để mỗi cán bộ chính trị cấp phân đội đều trở thành những cán bộ “đa năng”, “giỏi một việc, biết làm nhiều việc”.
Nội dung huấn luyện, bồi dưỡng phải toàn diện, nhưng ưu tiên bồi dưỡng về quan điểm, đường lối, nghệ thuật quân sự của Đảng; những nội dung cơ bản của học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội; tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, về công tác chính trị, về chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam; các chỉ thị, nghị quyết, quyết định của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, của Tổng Tham mưu trưởng và Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị… Từng cơ quan, đơn vị cần chủ động lựa chọn những nội dung trọng tâm, những khâu yếu, mặt yếu về chỉ huy tham mưu, kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng quân sự của cán bộ chính trị đơn vị để xác định thời gian, nội dung, hình thức, phương pháp huấn luyện, bồi dưỡng, tập huấn cho phù hợp. Đặc biệt, cần tập trung bồi dưỡng khắc phục kịp thời những vấn đề lâu nay đã thành “điểm yếu cốt tử” của cán bộ chính trị cấp phân đội như: năng lực huấn luyện quân sự; trình độ quản lý, chỉ huy bộ đội; điều lệnh đội ngũ; điều lệnh quản lý bộ đội; kỹ thuật bắn súng; thể lực; khả năng giải quyết các mối quan hệ với cấp uỷ, người chỉ huy cùng cấp và với cán bộ quân sự, cán bộ chuyên môn kỹ thuật trong đơn vị.
Ba là, phát huy tinh thần chủ động, tự giác, ham học hỏi, cầu tiến bộ của đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội trong học tập nâng cao trình độ kiến thức, kinh nghiệm quân sự và năng lực chỉ huy tham mưu.
Đây là một giải pháp quan trọng, đồng thời cũng là một yêu cầu trong công tác huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Bởi vì, xét cho cùng tất cả nỗ lực của các lực lượng trong công tác này vẫn chỉ là nhân tố khách quan. Để việc huấn luyện, bồi dưỡng nâng cao năng lực chỉ huy tham mưu và kiến thức, kinh nghiệm quân sự cho cán bộ chính trị cấp phân đội đạt hiệu quả phải có sự đồng thuận, quyết tâm và nỗ lực cao nhất của bản thân mỗi cán bộ chính trị cấp phân đội - đối tượng và cũng là chủ thể của hoạt động này. Lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở kịp thời việc học tập nâng cao trình độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ chính trị thuộc quyền; thường xuyên động viên, khen thưởng kịp thời về vật chất và tinh thần những đồng chí cán bộ có trách nhiệm cao, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có kết quả thực hiện nhiệm vụ tốt, có thành tích cao, có kinh nghiệm trong quản lý, chỉ huy đơn vị, trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, có uy tín trong chi bộ và uy tín trước đơn vị.
Bốn là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ huấn luyện quân sự tại chức và thường xuyên tổ chức các hội thi, hội thao quân sự ở đơn vị.
Để công tác huấn luyện, bồi dưỡng nâng cao năng lực chỉ huy tham mưu cho đội ngũ cán bộ chính trị cấp phân đội đạt hiệu quả, bên cạnh việc chuẩn bị tốt về nhân tố con người (chủ thể và đối tượng huấn luyện), phải đồng thời quan tâm đầu tư, bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ cho huấn luyện quân sự nói chung và huấn luyện quân sự tại chức cho cán bộ chính trị cấp phân đội nói riêng. Theo đó, các đơn vị cần triệt để tận dụng những vật chất hiện có, kết hợp với các sản phẩm ứng dụng do cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị làm ra từ các hội thao, hội thi cải tiến mô hình, đồ dùng huấn luyện để đưa vào phục vụ công tác huấn luyện quân sự tại chức cho cán bộ chính trị cấp phân đội. Tăng cường đầu tư mua sắm, sửa chữa, nâng cấp cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập của đơn vị, bảo đảm ngày càng tốt hơn cho công tác huấn luyện quân sự tại chức. Trước mắt, cần nghiên cứu, sử dụng các phương tiện trình chiếu, máy quay phim, thiết bị mô phỏng, tạo giả… để huấn luyện bổ sung các nội dung về kiến thức quốc phòng hiện đại, kinh nghiệm các trận chiến đấu, kỹ thuật chiến đấu bộ binh, chiến thuật binh chủng hợp thành, chiến thuật quân, binh chủng, điều lệnh đội ngũ, bắn súng… cho cán bộ chính trị cấp phân đội.
Bên cạnh đó, các cơ quan, đơn vị căn cứ vào kế hoạch và điều kiện thực tế của đơn vị mình cần phải thường xuyên tổ chức các hội thi, hội thao quân sự, hội thi cán bộ chính trị, bí thư chi bộ (đảng bộ) giỏi, thi báo cáo viên, tuyên truyền viên giỏi các cấp để rèn luyện cán bộ; đồng thời, khích lệ tinh thần tự giác học tập, lòng tự trọng của cán bộ chính trị cấp phân đội trong việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ kiến thức, kinh nghiệm hoạt động quân sự và năng lực chỉ huy tham mưu đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị khóa IX và Nghị quyết 513 của Đảng uỷ Quân sự Trung ương (nay là Quân uỷ Trung ương) về “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”./.
-PVL-



[1] Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Điều lệ Công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Điều 24, Nxb, QĐND, H, 2009, tr. 66-67.

Thứ Tư, 22 tháng 5, 2013

6 BƯỚC GIÚP BẠN TỪ BỎ THUỐC LÁ THÀNH CÔNG


6 BƯỚC GIÚP BẠN TỪ BỎ THUỐC LÁ THÀNH CÔNG
                                                                       

Có rất nhiều con đường thuốc lá làm hại bạn: Hút thuốc lá, nhai lá thuốc lá, hít thở khói thuốc từ những người xung quanh. Thuốc lá không những là nguyên nhân gây nên bệnh ung thư phổi, ung thư vòm họng, các bệnh tim mạch mà còn là nguyên nhân gây suy thoái giống nòi, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng rất lớn tới kinh tế của bản thân, gia đình và xã hội.
Qua thống kê của các chuyên gia cho thấy việc bỏ thuốc lá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Nồng độ Nicôtin trong thuốc lá, mức độ nghiện của người hút thuốc, sự hỗ trợ và can thiệp của cộng đồng và đặc biệt là quyết tâm bỏ thuốc của người hút thuốc. Có khoảng 70% số người hút thuốc đã cố gắng bỏ thuốc nhưng tỷ lệ thành công rất thấp thậm chí ở một số người cố gắng bỏ thuốc là suốt cả cuộc đời.
Nhằm thực hiện tốt quyết định 1315/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc “Cấm hút thuốc lá nơi công cộng” có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010, dưới đây là một số lời khuyên của các chuyên gia y tế và kinh nghiệm của những người nghiện thuốc lá đã bỏ thuốc thành công giúp bạn từ bỏ thuốc lá:
1. Tìm nguyên nhân khiến bạn muốn hút thuốc
Bạn hãy viết ra lý do bên cạnh những nguy cơ ảnh hưởng tới bạn và những người xung quanh để xác định rõ tư tưởng phải bỏ thuốc lá.
2. Quyết tâm cai thuốc
Trước khi bạn cai thuốc, bạn phải thực sự quyết tâm. Cai thuốc lá không phải là điều dễ dàng nhưng nhiều người đã làm được và bạn cũng có thể làm được và làm tốt hơn.
3. Bỏ hết thuốc lá, hộp quẹt, gạt tàn và bất cứ những thứ gì gợi nhớ đến thuốc lá
Tuyên bố với mọi người mình đã bỏ thuốc lá và đề nghị mọi người hỗ trợ (không mời thuốc, không hút thuốc trước mặt mình, không nói chuyện liên quan tới thuốc lá). Hạn chế uống rượu, bia vì nó làm tăng cảm giác thèm thuốc.
4. Chọn thời điểm bỏ thuốc lá thích hợp
Lúc không có công việc căng thẳng, nên chọn một ngày thư giãn thoải mái, một ngày không bị nhiều áp lực. Tốt nhất là vào ngày nghỉ lễ, nghỉ phép, kể cả nghỉ bệnh.
5. Đối phó với cơn thèm thuốc thích hợp
Cảm giác cực kỳ thèm thuốc chỉ kéo dài từ 1-5 phút. Hãy cố gắng trì hoãn mở bao thuốc lá 5 phút, hít thở dài, hít sâu, thở ra chậm, uống nước nhấp từng ngụm nhỏ. Có thể súc miệng bằng Boni Smol (một loại dược phẩm rất dễ mua ở các hiệu thuốc và giá tiền không cao) vì nó làm mất vị ngon của thuốc lá khi hút, làm bạn chán khói thuốc lá sẽ giúp bạn chống lại cơn thèm thuốc, nhai một chiếc kẹo cao su hoặc làm một việc gì khác như: Mở máy nghe nhạc, đọc sách báo, đi dạo...
6. Hãy yêu cầu sự giúp đỡ của mọi người 
Sự ủng hộ về tinh thần và trợ giúp về kỹ thuật đặc biệt là dư luận tích cực có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho người cai nghiện thuốc lá. Mọi người xung quanh cần tạo môi trường thuận lợi cho người hút thuốc bỏ thuốc, môi trường của người hút cần chú ý cả ở gia đình, nơi làm việc và sinh hoạt tập thể (có thái độ ủng hộ việc cai thuốc lá, không lôi kéo chào mời hút thuốc lá, lên tiếng nhắc nhở với biểu hiện “quyết tâm bỏ thuốc nửa vời”, xử phạt hành chính nghiêm minh với những trường hợp cố tình vi phạm quy định cấm hút thuốc lá nơi công cộng). Đối với những trường hợp nghiện nặng có thể nhờ sự hỗ trợ về kỹ thuật như: Châm cứu cai nghiện, sử dụng thuốc biệt dược cắt cơn nghiện. Nên đến các trung tâm cai nghiện thuốc lá, thuốc phiện vào các kỳ nghỉ, giờ nghỉ mặc dù chi phí vẫn còn cao và mất nhiều thời gian song hãy vì sức khoẻ của chính bạn và hạnh phúc của gia đình.
Trên đây là một số kinh nghiệm giúp bạn từ bỏ thuốc lá. Để “Nói không với thuốc lá” mỗi người phải tự giác chấp hành nghiêm quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng, những người chưa hút thuốc hãy tránh xa thuốc lá, những người hút thuốc hãy quyết tâm từ bỏ thuốc lá và đặc biệt dư luận ở các cơ quan, đơn vị phải thông cảm và giúp đỡ tạo môi trường thuận lợi để những người nghiện thuốc lá bỏ thuốc thành công. Hãy bỏ thuốc lá ngay hôm nay vì “Nói không với thuốc lá cũng là nét đẹp văn hoá nơi công cộng” vì sức khoẻ và hạnh phúc của bạn và tất cả chúng ta./.
Phan Lương

Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ - ĐỈNH CAO CỦA NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO VÀ CHỈ ĐẠO KẾT THÚC CHIẾN TRANH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM



Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng có ý nghĩa quyết định kết thúc 20 năm cuộc kháng chiến chống Mỹ và 30 năm đấu tranh gian khổ của dân tộc Việt Nam để hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Thắng lợi vĩ đại ấy là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, song trước hết đó là nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh của Đảng với đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, sáng tạo, sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương cùng với sự chỉ huy kiên quyết tài tình của Bộ Tư lệnh Chiến dịch.
Trước âm mưu và thủ đoạn của Mỹ nguỵ chống phá điên cuồng, nhưng xu thế tất thắng của cách mạng Việt Nam vẫn không bị đảo ngược, cục diện chiến tranh vẫn phát triển có lợi cho ta. Tháng 7 năm 1974 đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghe Bộ Tổng Tham mưu báo cáo tình hình, đồng chí đã phân tích âm mưu mới của kẻ thù đồng thời giao nhiệm vụ cho Bộ Tổng Tham mưu lập kế hoạch chiến lược giành thắng lợi trong năm 1975 và giành thắng lợi quyết định trong năm 1976 trình Bộ Chính trị. Ngay sau đó cuộc họp đợt 1 của Bộ Chính trị từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 08 tháng 10 năm 1974 bàn về chủ trương giải phóng miền Nam đã nhận định:
Chiến tranh đã bước vào giai đoạn cuối so sánh lực lượng đã thay đổi ta mạnh lên, địch yếu đi... chúng ta đã thúc đẩy cho thời cơ chiến lược chín muồi cho giai đoạn cuối cùng của chiến tranh, đã tạo nên những yếu tố quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn vì vậy một cuộc đọ sức cuối cùng giành thắng lợi về ta là tất yếu xảy ra, sự sụp đổ hoàn toàn của nguỵ quân nguỵ quyền là không tránh khỏi. Hội nghị khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 và 1976. Ngay sau hội nghị một không khí khẩn trương chuẩn bị tưng bừng nhộn nhịp, tràn đầy khí thế lan toả khắp chiến trường và các quân binh chủng trong quân đội và các địa phương.
Bám sát diễn biến mau lẹ của chiến trường, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 2 tháng 1 năm 1975 đã khẳng định: cả năm 1975 là thời cơ và nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức phải giải phóng miền Nam trong năm 1975. Yêu cầu cần thiết lúc này Đảng ta xác định phải tranh thủ thời cơ thực hiện tổng tiến công và tổng khởi nghĩa phải đánh nhanh để đỡ thiệt hại về người và của, của nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá… giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh. Phải tranh thủ thời cơ làm cho địch không kịp xoay sở và các thế lực phản động đế quốc không thể phá hoại ngay. Hội nghị đi đến kết luận chiến lược: chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc. Có thể khẳng định, Hội nghị của Bộ Chính trị có ý nghĩa lịch sử trọng đại thể hiện rõ sự lãnh đạo sát sao và đúng đắn của Đảng, đó là “bó đuốc chỉ đường” cho quân và dân ta bước vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Chấp hành quyết định nói trên, ngày 10 tháng 3 năm 1975 sau khi tổ chức nghi binh chiến lược ở bắc Tây Nguyên, ta tổng tiến công thị xã Buôn Ma Thuật rồi giải phóng Tây Nguyên, tiếp đó ngày 26 tháng 3 giải phóng Huế - Đà Nẵng, quân nguỵ nguy cơ sụp đổ hoàn toàn, còn Mỹ tỏ ra bất lực dù có can thiệp cũng không cứu vãn nổi cho quân nguỵ. Thất bại về quân sự dẫn đến hàng loạt sai lầm chiến lược của giới chức nguỵ quyền đặc biệt là cuộc lui quân hoảng loạn theo lệnh của Nguyễn Văn Thiệu co cụm trận địa về duyên hải miền Trung.
Ngày 13 tháng 3 năm 1975 Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương họp và nhận định: thắng lợi ở Buôn Ma Thuật, Đức Lập, trên đường 19 và các hướng chứng tỏ ta có khả năng giành thắng lợi to lớn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Lần đầu tiên Hội nghị Bộ Chính trị các ý kiến đã thống nhất khẳng định niềm tin tất thắng của ta có thể diễn ra nhanh hơn: trước đây ta dự kiến 2 năm giải phóng miền Nam, nay có Phước Long, Buôn Ma Thuật, ta có thể đẩy mạnh hơn, phải chăng đây là bước đẩy của cuộc tiến công chiến lược. Ngày 18 tháng 3 trước sự sụp đổ của quân nguỵ nhanh hơn dự kiến, ta có thể tranh thủ thời cơ giành thắng lợi hoàn toàn ngay trong năm 1975 theo phương châm kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng. Vậy là, từ kế hoạch 2 năm, Bộ Chính trị chuyển sang kế hoạch giành thắng lợi ngay trong năm 1975. Đây là một quyết tâm lớn, táo bạo, hết sức chính xác nhưng dựa trên căn cứ thực tiễn của tình hình chiến sự. Ngày 25 tháng 3 Bộ Chính trị hạ quyết tâm mới hoàn toàn giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa năm 1975 (trước tháng 5)… nắm vững thời cơ chiến lược hơn nữa, với tư tưởng chỉ đạo: Thần tốc - táo bạo - bất ngờ - chắc thắng. Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đây là chiến dịch tiến công do trực tiếp cấp chiến lược tổ chức, chỉ đạo và chỉ huy. Từ nhận định quyết tâm giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa, Bộ Chính trị đi tới xác định thời gian cụ thể giải phóng Sài Gòn trong tháng 4 năm 1975. Để đáp ứng yêu cầu đó ngày 01 tháng 4 năm 1975, Bộ Chính trị chỉ định 3 đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị có mặt tại chiến trường và chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị. Thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch (ngày 03 tháng 4 năm 1975) do trực tiếp đồng chí Tổng Tham mưu trưởng làm tư lệnh, đồng chí Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng làm chính uỷ chiến dịch. Các cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần của Bộ Tư lệnh miền B2 chuyển thành cơ quan chỉ huy của Bộ và các Tổng cục chuyển thành cơ quan chỉ huy của Bộ Tư lệnh Chiến dịch.
Khác với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, trong cuộc chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này để huy động và động viên toàn bộ cả nước, Đảng ta còn chỉ đạo thành lập Hội đồng chi viện cho tiền tuyến do đích thân Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch. Thành lập khẩn cấp Quân đoàn 3 (ngày 26 tháng 3 tại chiến trường Tây Nguyên), cùng với các Quân đoàn 1, 2, 4 đã thành lập trước đó làm lực lượng nòng cốt của đòn tiến công quân sự mạnh áp đảo để giải phóng Sài Gòn.
Ngày 14 tháng 4 năm 1975 Bộ Chính trị quyết định lấy tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh và chỉ rõ cách đánh Sài Gòn là: đánh thẳng vào trung tâm Sài Gòn bằng lực lượng đột kích mạnh, có binh chủng hợp thành. Tiến công thật mạnh và liên tục dồn dập đến toàn thắng, vừa phát động tấn công ở ngoại vi, vừa có lực lượng sẵn sàng nắm thời cơ thọc sâu vào trung tâm từ nhiều hướng, thực hiện trong đánh ra, ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy… mục đích của chiến dịch là đánh đòn quyết chiến chiến lược cuối cùng, kết thúc chiến tranh, giành thắng lợi triệt để. Đối tượng là lực lượng địch chiến lược chủ yếu cuối cùng, hướng tiến công chủ yếu là Bắc và Tây Bắc, hướng Đông và Tây Nam là những hướng hiểm yếu và quan trọng. Từ các hướng mũi khác nhau quân ta thẳng tiến vào trung tâm Sài Gòn bao vây cô lập với các khu vực xung quanh.
Thắng lợi nhanh chóng của Chiến dịch Hồ Chí Minh (trong vòng 3,5 ngày) còn có vai trò quan trọng của việc Đảng ta mà trực tiếp là Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã xác định chính xác các mục tiêu chủ yếu quan trọng nhất (Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng nha Cảnh sát, Sân bay Tân Sơn Nhất, Biệt khu Thủ đô) vì vậy mà có biện pháp tập trung binh hoả lực đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu nhanh chóng làm chủ toàn bộ Sài Gòn. Song song với việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức sử dụng lực lượng quân sự chiến dịch thì tổ chức chuẩn bị lực lượng chính trị của quần chúng làm nòng cốt nổi dậy cũng là nét độc đáo trong nghệ thuật lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trước khi bước vào chiến dịch ta đã tăng cường vào vùng ven đô và nội đô 1.700 cán bộ, chuẩn bị cho nhập thành 1.300 cán bộ trong đó có 12 đồng chí là thành uỷ viên, 60 quận uỷ viên. Vùng nội và ngoại thành có khoảng 10.000 quần chúng làm nòng cốt và hơn 400 tổ chức công khai với gần 25.000 người. Do vậy thế và lực ta hơn hẳn địch, đây là nét tiêu biểu lần đầu tiên xuất hiện trong kháng chiến chống Mỹ. Vì vậy bước vào chiến dịch địch đã bị thiệt hại 35% quân sư, 40% hậu cần, 40% binh khí kỹ thuật. Tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch đạt tỷ lệ 1,7/1 về chủ lực và 3/1 về đơn vị tập trung. Kế thừa kinh nghiệm từ các giai đoạn trước đó, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh ta phát huy hiệu quả thế trận hai lực lượng, ba thứ quân, thực hiện hai đòn tiến công quân sự và nổi dậy tăng sức mạnh lên gấp đôi. Đặc biệt là hình thức đấu tranh chính trị phong phú đa dạng, hiệu quả cao lôi kéo nhiều tầng lớp và đối tượng tham gia. Tổ chức cho quần chúng ra đường đấu tranh, làm công tác địch vận, tán phát tài liệu tuyên truyền, may cờ, viết biểu ngữ, truy lùng ác ôn, dẫn đường cho bộ đội… công nhân tổ chức bảo vệ nhà máy, kho tàng, giữ gìn an ninh trật tự, chống cướp bóc, hôi của…
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tư tưởng cách mạng tiến công được duy trì từ đầu cho tới cuối chiến dịch không chút lơ là. Ngày 30 tháng 4 mặc dù Dương Văn Minh kêu gọi ngừng bắn để điều đình giao chính quyền song ta vẫn kiên quyết tiếp tục tiến công với khí thế dũng mãnh theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị và Đảng uỷ mặt trận là: tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch giải phóng và chiếm lĩnh thành phố, tước vũ khí, giải tán chính quyền các cấp đập tan mọi kháng cự của địch.
Có thể nói với tinh thần một ngày bằng 20 năm thiếu sự chỉ đạo đó không thể có hành động thần tốc - táo bạo - bất ngờ giành thắng lợi nhanh chóng như Chiến dịch Hồ Chí Minh, thậm chí dễ chủ quan thoả hiệp với địch về một số điều khoản, chính sách khi chuyển giao chính quyền - điều này đã từng xảy ra với nhiều nước trên thế giới, dẫn tới thắng lợi không triệt để, để lại những hệ luỵ về chính trị sau này.
Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là thắng lợi đỉnh cao của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Là thắng lợi vĩ đại và trọn vẹn nhất kết thúc 30 năm chống ngoại xâm của dân tộc ta, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập tự chủ, thống nhất và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi này đã đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ ở Việt Nam, mở ra thời kỳ mới và động viên nhân loại tiếp tục cuộc đấu tranh vì các mục tiêu của thời đại: “Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”.
Kỷ niệm 37 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc là dịp để mỗi chúng ta khơi dậy lòng tự hào dân tộc, biết ơn và trân trọng với những thành quả cách mạng to lớn của đất nước được mở ra từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là dịp để chúng ta tiếp tục nghiên cứu về nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của Chiến dịch Hồ Chí Minh và tầm vóc vĩ đại của sự kiện này giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn về nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo, tiến hành và kết thúc chiến tranh của Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương, sự chỉ huy xuất sắc của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, nỗ lực cố gắng của quân dân cả nước, sự đoàn kết ủng hộ của bạn bè quốc tế tạo nên cội nguồn sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Thắng lợi này tiếp tục khẳng định trong bất cứ nhiệm vụ nào, khi nào mà vai trò lãnh đạo của Đảng với đường lối chính trị, quân sự và ngoại giao đúng đắn, trên cơ sở có sự đồng thuận của nhân dân và sự giúp đỡ của nhân loại tiến bộ, sẽ là yếu tố tiên quyết bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và sự trưởng thành, chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam./.
-PVL-

NGẪM



Không sợ trời nắng
Chẳng ngại trời mưa
Chỉ sợ tóc thưa
Sớm thành sư trẻ.

Không ngại vợ trẻ
Chẳng chê vợ già
Chỉ ngại thịt gà
Ngồi nhai không nổi.

Một thời nông nổi
Một thuở ham vui
Chẳng dám trách ai
Bây giờ thấy tiếc!

(13/3/2013).