PVL
Việt Nam là một quốc gia “đất không rộng, người không đông”, song có một vị trí địa chính trị rất quan trọng ở khu vực Đông Nam Á - nơi có tuyến đường vận tải đường biển lớn nhất thế giới và là nơi giao thao của nhiều nền văn hóa. Cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, ViệtNam
là một đất nước có nhiều tôn giáo song song tồn tại trong tiến trình lịch sử;
trong đó có cả tôn giáo ngoại nhập và tôn giáo nội sinh. Số lượng tín đồ tôn
giáo ở nước ta hiện nay chiếm trên 20% dân số và đang có chiều hướng tăng nhanh
về số lượng, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người.
Việt Nam là một quốc gia “đất không rộng, người không đông”, song có một vị trí địa chính trị rất quan trọng ở khu vực Đông Nam Á - nơi có tuyến đường vận tải đường biển lớn nhất thế giới và là nơi giao thao của nhiều nền văn hóa. Cũng như nhiều quốc gia trong khu vực, Việt
Khác với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, các tôn giáo ở Việt Nam dù nội sinh hay ngoại nhập,
dù xuất hiện sớm hay muộn, có nhiều hay có ít tín đồ thì về cơ bản các tôn giáo
đều chung sống hòa bình trong đại gia đình Việt Nam. Trải qua các giai đoạn
thăng trầm của lịch sử, dù không tránh khỏi những bất đồng, khác biệt nhất
định, song nhìn chung các tôn giáo và tín đồ tôn giáo đều đoàn kết, chung sức
xây dựng đất nước và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam
ra đời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và thống nhất cho
Tổ quốc; Đảng và Nhà nước ta đều nhất quán thực hiện chính sách tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Tuy nhiên, tôn giáo là
một hiện tượng xã hội lịch sử phức tạp, đang có nhiều xu hướng phát triển và
biến đổi khác nhau. Thực tế lịch sử ở nhiều nước và đặc biệt là ở Việt Nam thời
gian qua đã cho thấy, chỉ một sự hiểu lầm, một tư tưởng cực đoan, sự nghi kỵ,
mất niềm tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; cộng với sự “hà hơi, tiếp sức” của các thế lực phản động trong và ngoài
nước cũng có thể xảy ra những sự việc gây mất ổn định an ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội rất nghiêm trọng. Các vụ việc đã từng xảy ra năm 1993 hay vụ
việc Nguyễn Văn Lý năm 2001 ở Thừa Thiên Huế, vụ bạo động ở Tây Nguyên năm 2001
và 2004, gần đây là vụ giáo xứ Thái Hà, giáo xứ Mỹ Yên ở Nghệ An năm 2013, hoạt động của tà đạo Hà Mòn
ở Kon Tum, tà đạo Dương Văn Mình và tà đạo Hoàng Thiên Long (còn gọi là đạo Tâm linh Hồ Chí Minh, đạo Bác Hồ)... ở các tỉnh biên giới phía Bắc đã cho thấy,
vấn đề tôn giáo ở nước ta vẫn đang tiềm ẩn diễn biến khó lường, đe dọa phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc và ảnh hưởng tiêu cực tới sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Điều đáng nói là trong tất cả các vụ việc có liên quan tới vấn
đề tôn giáo ở nước ta trong những năm qua đều ít nhiều có sự can thiệp của các
thế lực phản động.
Vậy chúng ta phải làm gì
để tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tôn giáo và phòng, chống có
hiệu quả việc lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta, đó là vấn đề cấp
thiết trong tình hình hiện nay.
Thứ nhất, tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục để quần chúng nhân dân và các tín đồ tôn giáo
nắm đúng, hiểu rõ, thực hiện nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về tôn giáo. Giữ gìn, củng cố, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, đồng bào lương giáo trên cơ sở truyền thống, bản sắc và lợi
ích quốc gia dân tộc; gác lại những khác biệt để cùng chung tay xây dựng quê
hương, xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bằng nhiều hình thức,
biện pháp tuyên truyền, giáo dục để đồng bào, nhất là tín đồ tôn giáo có nhận
thức đúng đắn và tự giác chấp hành pháp luật Nhà nước; thực hiện tốt cả “việc
đời” và “việc đạo”. Đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trước các hành động
kích động, lôi kéo, mua chuộc của các phần tử cơ hội, phản động chống phá cách
mạng Việt Nam ,
lợi dụng vấn đề tôn giáo, tự do tôn giáo để vi phạm pháp luật, chia rẽ khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.