-PVL-
Chiến tranh đã lùi xa vào quá
khứ 39 năm, tuy vậy đối với nhân loại tiến bộ, đối với nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều chính trị gia trong nước và quốc tế, hẳn sẽ còn tiếp tục đặt ra nhiều câu
hỏi, đi sâu tìm tòi, phân tích, đánh giá nhiều hơn nữa về cuộc chiến tranh của
Mỹ tiến hành ở Việt Nam; đặc biệt là thắng lợi nhanh chóng, trọn vẹn của quân
và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975.
Sáng
30/4 cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 10, Quân đoàn 3
đánh
chiếm Sân bay Tân Sơn Nhất. (Ảnh tư liệu).
Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đặc biệt là Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ
ngày 26 đến ngày 30/4/1975), về cơ bản các ý kiến từ trước đến nay đều thừa
nhận vai trò của bộ đội chủ lực, của các lực lượng vũ trang địa phương và sức
mạnh quyết định của đòn tiến công về quân sự. Tuy nhiên, trên thực tế, một
trong những nhân tố rất quan trọng làm nên chiến thắng này chính là vai trò của
quần chúng, nhất là sức mạnh của các đòn tiến công và nổi dậy của quần chúng
nhân dân trong Chiến dịch.
Xe tăng T59 số hiệu 390 thuộc Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 203, Quân đoàn
2 húc đổ cổng Dinh Độc lập,
Thực tế lịch sử đã ghi nhận các đòn nổi dậy của quần chúng nhân dân
trong Chiến dịch Hồ Chí Minh diễn ra tương đối rộng lớn, sôi nổi, kịp thời và
khá hiệu quả; nhưng nó chỉ giành được chính quyền ở cấp cơ sở (phường, khóm ở
một số huyện, quận), còn ở các quận trung tâm như Quận 1, 2, 3 các cơ sở của ta
chưa xây dựng lại được nhiều từ sau Hiệp định Pa-ri (01/1973). Do đó, phải
khẳng định không có tổng nổi dậy của quần chúng nhân dân mùa Xuân năm 1975 ở
Sài Gòn giống như Tết Mậu Thân năm 1968; bởi vì, chỗ dựa chủ yếu của Nguỵ quyền
Trung ương lúc đó là khối chủ lực Quân đoàn 3 và tổng trù bị còn lại của địch
đã bị các quả đấm thép của chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương ta tiêu
diệt và làm tan rã. Tuy nhiên, các đòn tiến công và nổi dậy của quần chúng thật sự đã là mũi tiến công chiến lược lợi hại, có
tác dụng quan trọng góp phần giành thắng lợi chiến dịch một cách nhanh gọn,
triệt để và trọn vẹn (trong 4 ngày đêm).
Đồng bào miền Nam
xuống đường biểu tình phản đối Ngụy quyền Sài Gòn. (Ảnh tư liệu)
Nữ du kích dẫn đường cho xe tăng Quân giải phóng tiến vào giải phóng
Sài Gòn - Gia Định.
(Ảnh tư liệu)
Nhân dân vùng ngoại thành
Sài Gòn - Gia Định sử dụng thuyền (ghe) chuyên chở bộ đội và du kích tham gia Chiến
dịch Hồ Chí Minh. (Ảnh tư liệu)
Phụ nữ miền Nam
may, vá cờ Tổ quốc phục vụ kháng chiến. (Ảnh tư liệu)
Nhân dân Sài Gòn - Gia Định phấn khởi chào đón Quân giải phóng
trước cửa Dinh Độc Lập,
trưa ngày 30/4/1975. (Ảnh tư liệu).
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh,
trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, không gian chiến dịch rộng (Sài Gòn -
Gia Định diện tích khoảng 1.845 km2), thời gian diễn ra chiến
dịch ngắn, mục tiêu tiến công là thủ đô của chế độ Nguỵ quyền, nơi được Mỹ,
Nguỵ dày công xây dựng và củng cố. Trong khi đó, Sài Gòn có mật độ dân cư đông
bậc nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ (dân số trong phạm vi chiến dịch khoảng
6 triệu người, trong đó vùng nội thành khoảng 3,5 triệu); thành phố có cấu trúc
phức tạp với nhiều công trình kiến trúc đa dạng, là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, có các kho tàng và căn cứ hậu cần quan trọng, là sào huyệt
cuối cùng của địch.
Quan điểm của Đảng ta từ trước tới
nay luôn thống nhất khẳng định, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, phải: “Phát
huy sức mạnh tổng hợp, kết hợp đòn quân sự và đòn nổi dậy, tiến công quân sự đi
trước một bước; kết hợp ba thứ quân, lấy tác chiến hiệp đồng binh quân chủng
của chủ lực làm chủ yếu; chuẩn bị tốt để đánh chắc thắng” (1), “Đòn nổi dậy
cũng được tiến hành đồng thời trên cơ sở uy lực và thanh thế chấn động của đòn
quân sự” (2).
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo
chiến lược: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” và phương châm “Tiến
công quân sự kết hợp địch vận, kết hợp tiến công với nổi dậy, nhưng tiến công
quân sự phải đi trước một bước, giữ vai trò quyết định”, “thực hiện trong đánh
ra, ngoài đánh vào, trong ngoài cùng đánh”. Do vậy, cùng với việc xây dựng kế
hoạch tổng công kích giải phóng Sài Gòn - Gia Định, Bộ Chính trị đã chỉ đạo Bộ
Chỉ huy Chiến dịch xây dựng kế hoạch nổi dậy của quần chúng để phối hợp chặt
chẽ với các đòn tiến công quân sự. Yêu cầu đặt ra là kế hoạch phải được tính
toán kỹ lưỡng, tiến hành khẩn trương và tuyệt đối giữ bí mật. Sau khi được phê
duyệt, kế hoạch được phổ biến xuống tận phường, khóm, đến các cơ sở chính trị,
binh vận của ta trong thành phố.
Để chuẩn bị cho các đòn tiến
công và nổi dậy của quần chúng nhân dân trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ngày
29/3/1975 Trung ương Cục có Nghị quyết 15, sau đó phổ biến cho Thành uỷ; tiếp
đó ngày 12/4, Thành uỷ có chỉ thị, hướng dẫn cụ thể về đẩy mạnh mũi nổi dậy,
nêu lên thời cơ và những công việc cần làm ngay: tổ chức điều chỉnh, bổ sung kế
hoạch và phương pháp chỉ đạo quần chúng nổi dậy; phân công rõ trách nhiệm cho
các bộ phận, các cánh quân (cánh A phụ trách các huyện nam thành phố và nội đô,
cánh B phụ trách các huyện ngoại thành và Gia Định); tăng cường một số thành uỷ
viên, quận uỷ viên và tương đương vào phụ trách và chỉ đạo phong trào quần
chúng nổi dậy; Trung ương Cục cử đồng chí Nguyễn Văn Linh trực tiếp phụ trách
mũi nổi dậy…
Tính đến thời điểm trước ngày
mở màn chiến dịch, lực lượng chính trị có tổ chức của thành phố có khoảng hơn
40.000 người (gồm khoảng 400 đảng viên, hơn 300 đoàn viên, hơn 400 nòng cốt,
hơn 4.500 quần chúng có vũ trang, hơn 500 hội viên và 30.000 quần chúng tích
cực cùng khoảng 400 tổ chức quần chúng công khai hợp pháp với hơn 7.000 quần chúng)
(3). Các lực lượng này đã tích cực, chủ động tiến hành các hoạt động chuẩn bị
cho việc nổi dậy như: in tài liệu;
may cờ, viết biểu ngữ, truyền đơn, khẩu hiệu tuyên truyền; chuẩn bị lực lượng,
các loại phương tiện xe máy để tiến hành phát thanh lưu động; bộ phận quần
chúng làm liên lạc nội tuyến, dẫn đường cho bộ đội chủ lực…
Khi chiến dịch bắt đầu, trong
điều kiện có đòn tiến công quân sự đi trước và hỗ trợ, dưới sự lãnh đạo của các
tổ chức cơ sở đảng, được sự hỗ trợ trực tiếp của đặc công, biệt động, bộ đội
địa phương... các lực lượng chính trị của quần chúng đã nhanh chóng nổi dậy với
sức mạnh to lớn, giành chính quyền ở nhiều khu vực nội và ngoại thành dưới
nhiều hình thức và mức độ khác nhau như: quần chúng ra đường phố làm công tác
địch vận, tuyên truyền, phổ biến, lôi kéo, hù doạ đối với lực lượng kìm kẹp tại
chỗ, thúc đẩy chúng vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ trang phục, rút khỏi trụ sở, đồn bốt,
rời bỏ hàng ngũ trở về nhà hoặc tháo chạy, ẩn náu; tiến hành công tác tuyên
truyền đặc biệt với các lực lượng trung gian để họ ngả theo cách mạng hoặc ít
ra cũng không cố thủ, chống đối cách mạng; quần chúng nhân dân tích cực, đặc
biệt là đoàn viên, thanh niên dùng xe dẫn đường hoặc chở bộ đội, công nhân viên
chức nơi có cơ sở đảng, chiếm giữ và bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp, kho bãi,
nhà ga, bến cảng; người giữ kho tiền, vàng cất giấu chìa khoá, bảo vệ tài sản…
Ở vùng ngoại thành, quần
chúng tham gia phá huỷ đồn bốt, chiếm giữ nhiều trụ sở xã, ấp, huyện như ở Củ
Chi, Hóc Môn, Bình Chánh, Gò Vấp, Thủ Đức; thu giữ các giấy tờ, hồ sơ; hạ cờ
nguỵ, kéo cờ ta; cử đại diện chính quyền cách mạng.
Trong nội thành, các tổ chức cơ
sở đảng trước, trong và sau thời gian diễn ra chiến dịch đã tổ chức duy trì tốt
việc bảo đảm điện, nước sinh hoạt liên tục không bị ngưng trệ (tiêu biểu là nhà
máy điện Chợ Quán, Thủ Đức; nhà máy nước Thủ Đức); truyền hình thành phố đã
chuẩn bị các phương án và chương trình cụ thể từ trước nên chỉ sau 12 giờ đã
phát sóng theo chương trình mới của cách mạng.
Ngày 29/4, sau các đòn tiến
công quân sự của bộ đội chủ lực, các lực lượng vũ trang tại chỗ trong địa bàn
chiến dịch bao gồm bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, lực lượng biệt động, đặc
công đã phối hợp với quần chúng nhân dân đã đồng loạt tiến công và nổi dậy,
đánh chiếm trên 100 mục tiêu, làm chủ 13 cầu các loại, đạt hiệu xuất chiến đấu
cao. Trong ngày 29/4 có 107 điểm nổi dậy của quần chúng, gồm 31 điểm ngoại
thành, 76 điểm nội thành; đêm 29/4 có 75 điểm nổi dậy và sáng 30/4 có 32 điểm
nổi dậy của quần chúng (4). Lực lượng quần chúng tích cực tham gia giữ gìn an
ninh trật tự, bảo vệ thành phố, ngay trong ngày 30/4 mọi hoạt động của Sài Gòn
- Gia Định hầu như diễn ra bình thường, không xảy ra tình trạng rối loạn, hôi
của, cướp bóc.
Có thể khẳng định, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử; vai trò của quần chúng và
đòn nổi dậy của quần chúng nhân dân là rất quan trọng. Mặc dù tính chất, quy
mô, lực lượng tiến công và nổi dậy của quần chúng nhân dân không nổi bật và mang tính quyết định như cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, nhưng đã trực tiếp góp phần đập tan hệ
thống ngụy quyền cơ sở làm nên thắng lợi trọn vẹn, triệt để và hạn chế tối đa
thương vong về người, tổn thất về cơ sở vật chất, cũng như những tổn hại về mặt
tâm lý, tinh thần, xã hội cho nhân dân./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1), (2), (3), (4): “Chiến
dịch Hồ Chí Minh - Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước”; Nxb QĐND; Hà
Nội, 2005; tr. 277, 290, 292, 294.
(5) Quân đội nhân dân Việt Nam , Tổng cục Chính trị, Quá
trình hình thành tổ chức và chỉ đạo công tác đảng, công tác chính trị trong
quân đội, Tập 1 (1944 - 1975), Nxb QĐND, H, 1997.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét